Quẻ Thuần Càn là quẻ tốt,dương rất thịnh, lợi cho đông đảo điều tích cực. Quẻ nhà về tương lại sáng sủa sủa, tài vận giỏi về sau, marketing nhiều tài lộc, thi cử dễ thành đạt, quá trình hanh thông. Đặc biệt, quẻ vận dụng cho câu hỏi mưu cầu công danh, hoạt động kinh tế cực kỳ tốt.
Bạn đang xem: Quẻ thuần càn
Ý nghĩa tượng Quẻ:Khốn Long đắc thủy :Nghĩa là thời vận đang đến. Mặc dù nếu gieo được quẻ này thì vào mùa đông sẽ không được tốt, các mùa còn lại đa số tốt.
Ý nghĩa Quẻ bát thuần càn (Càn Vi Thiên)

Nội quái, nước ngoài quái phần nhiều là Càn
*Ý nghĩa: kiện dã, chính yếu, cứng mạnh, khô, lớn, khỏe mạnh mạnh, đức ko nghỉ. Nguyên – khô giòn – Lợi – Trinh: Vạn vật có sự khởi đầu, mập lên, toại trí, hóa thành.
*Dịch: Càn có (có bốn đức – đặc tính): đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, chính và bền.Bói được quẻ này thì rất tốt, hanh hao thông, có lợi và tất giữ vững được cho tới lúc cuối cùng.
Quẻ Thuần Càn bao gồm sáu hào rất nhiều dương cả, có ý nghĩa cương cường, vững mạnh, tượng mang lại trời, vua người lũ ông béo tuổi, fan cha…Trời có đức “nguyên” vì là nguồn gốc của vạn vật; có đức “hanh” vì làm ra mây, mưa để mang đến vạn vật sinh trưởng đến vô cùng, có đức “lợi” và “trinh” vì biến hóa, khiến đến vật gì cũng giữ được bản tính được nguyên khí cho thái hòa (cực hòa).
Bậc thánh nhân đứng đầu muôn vật, theo đạo Càn thì thiên hạ bình an vô sự.
Quẻ Càn tượng trưng cho tất cả những người quân tử, bao gồm tứ đức:
– Nhân, đức lớn nhất, gốc của lòng người, tức như đức “nguyên” của trời.
– Lễ, là hợp với đạo lý, hợp với đạo lý thì hanh thông, do đó lễ tức như đức “hanh” của trời.
– Nghĩa, đức này làm đến mọi người được vui vẻ sung sướng, tức như đức “lợi” của trời.
– Trí, là sáng suốt, biết rõ thị phị, có biết thị phi mới làm được mọi việc do đó nó là đức cốt cán, cũng như đức “trinh” chính và bền – của trời.
Ý nghĩa hào từ trong quẻ chén thuần càn
Hào 1:Tiềm long vật dụng.
Tượng:Rồng còn ẩn mình ngóng thời, chưa (đem tài ra) sử dụng được.
Lời giảng:Người nước trung hoa cho bé rồng là thần vật, rất biến hóa, lúc ẩn lúc hiện, mà lại thuộc về lòai dương, vì thế chu Công dùng nó để đến ta dễ thấy ý nghĩa các hào – đều là dương cả – vào quẻ Thuần Càn.
Hào 1, ở dưới thấp nhất, cho nên vì thế ví nó với nhỏ rồng còn ẩn mình dưới vực sâu, không thể làm mây biến hóa được, còn phải đợi thời. Ý nghĩa rất rõ, Tiểu tượng truyện ko giảng gì thêm. Còn Văn Ngôn truyện thì bàn rộng ra về cách sử sự của bâc thánh nhân, người quân tử : chưa gặp thời thì yêu cầu kiên trì tu đức, luyện tài, ko vì thế tục mà lung lay đổi chí, không cầu danh, ở ẩn, không có bất kì ai biết mình cũng ko buồn, không gì lay chuyển được chí của mình.
Hào 2:Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân.
Tượng: rồng đã bong khỏi vực, cần kiến đại nhân để học
Lời giảng:Hào 2 là dương, ở giữa nội quái là đắc trung, như vậy là gặp thời, tài đức giúp ích đến đời được: lại thêm hào ứng với nó là hào 5, cũng là dương, cũng đắc trung (vì ở giữa ngọai quái); cho nên vì vậy hào 2 có thể ví với nhỏ rồng đã rời vực mà hiện lên cánh đồng; mà cũng như người có tài đức gặp thời, buộc phải kiến đại nhân).
Khuyên người có tài đức gặp thời này nên giữ đức tín, đức thận trọng vào ngôn, hành, tránh tà bậy, giữ lòng thành, giúp đời mà không khoe công, như vậy là giữ được đức trung chính của hào 2.
Hào 3:Quân tử phổ biến nhật càn càn, tịch dịch nhược. Lệ, vô cữu.
Tượng:Người quân tử mỗi ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn thận trọng như lo sợ. Nguy hiểm, tuy vậy không tội lỗi.
Lời giảng: Hào 3 là dương lại ở vị ngôi dương, như vậy là rất cương cường mà không đắc trung. Hơn nữa, nó ở trên cùng nội quái mà không tiến lên ngọai quái, nghĩa là ở một chỗ chông chênh, rất khó xử, cho nên vì vậy bảo là nguy hiểm (lệ). Nhưng nó vẫn là quân tử, có đức tự cường không ngừng, rất thận trọng, lúc nào cũng như lo sợ, cho nên vì vậy tuy gặp thời nguy mà cũng không đến nỗi tội lỗi.
Người quân tử giữ trung tín để tiến đức; sửa lời nói (lập ngôn) vững lòng thành để lập sự nghiệp . . .nhờ vậy mà thấu được đạo lý, giữ được điều nghĩa làm được sự nghiệp tới cùng, ở địa vị cao mà ko kiêu, địa vị thấp mà không lo. Lời khuyên đó cũng tựa như lời răn dạy ở hào 2
Hào 4:Hoặc dược, tại uyên, vô cữu.
Tượng:Con rồng có khi bay nhảy, có lúc nằm vào vực (biết tùy thời như thế thì) không lầm lỗi.
Lời giảng: Hào 4 là dương ở vị (ngôi) âm, như vậy là bất chính và bất trung; nó lại cũng như hào 3 ở địa vị chông chênh, mới rời nội quái tiến lên ngọai quái, tiến chưa chắc đã tốt mà thóai thì dở dang. Vì thế phải thận trọng coi xét thời cơ, đề xuất tiến thì tiến (như bé rồng cất cánh nhảy) nếu không thì chờ thời (con rồng nằm vào vực), vì thế Chu Công dùng chữ “hoặc”: không nhất định.
Tuy bất chính, bất trung như nó có chất cưng cửng kiện (hào dương trong quẻ Càn) đề nghị cũng như hào 3 là bậc quân tử , biết giữ bốn cách, biết tùy thời, và rốt cuộc ko có lỗi.
Hào này chỉ khác hào 3 ở chỗ nó có thể tiến được, còn hào 3 chưa thể tiến được.
Văn ngôn không giảng gì khác, chỉ răn dạy người quân tử tiến đức tu nghiệp, chuẩn bị đến kịp thời để có lúc ra giúp đời.
Hào 5:Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân.
Tượng:Rồng bay trên trời, ra mắt kẻ đại nhân thì lợi.
Lời giảng:Hào 5 là dương ở vị (ngôi) dương cao nhất vào quẻ lại đắc trung (ở giữa ngọai quái), như vậy là có đủ những điều tốt,vừa cao quí vừa chính trung. Nó lại được hào 2 ở dưới ứng với nó, mà hào 2 cũng cương kiện, đắc trung như nó. Nó là hào tốt nhất vào quẻ , cho nên vì thế ví nó với con rồng cất cánh trên trời, và ngôi của nó là ngôi chí tôn (ngôi vua).
Chữ đại nhân (người có tài đức) trỏ cả hào 5 lẫn hào 2: nhị đại nhân ở nhì hào đó nên gặp nhau, hợp lực với nhau thì có lợi.
Văn ngôn giảng thêm rất rõ và tốt về bốn chữ lợi kiến đại nhân: “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; nước chảy xuống thấp, lửa bén tới chỗ khô; mây bay theo rồng, gió cất cánh theo cọp, thánh nhân xuất hiện mà vạn vật đều trông vào (…) Mọi vật đều theo loài của nó” (Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; thủy lưu giữ thấp, hỏa tựu táo, vân tòng long, phong tòng hổ, thánh nhân tác nhi vạn vật đổ (…) các tùy kỳ loại dã).
Hào 6:Kháng long hữu hối.
Tượng:Rồng lên cao quá, có hối hận.
Lời giảng:Hào 6 dương này ở bên trên cao của quẻ , cưng cửng kiện đến cùng rồi, như nhỏ rồng bay lên rất cao quá, ko xuống được nữa, nếu vẫn còn hành động thì sẽ có điều đáng tiếc, vì lẻ thịnh quá thì tất suy, cưng cửng quá thì gãy, đầy thì ko được lâu, (doanh bất khả cửu).
Hào 6 địa vị rất quí (vì ở trên cao hơn hết) nhưng không có ngôi, cao mà không có dân (vì hào 5 là vua mới có dân), các người hiền ở dưới mình mà không giúp đỡ mình (vì hào 3 tuy ứng với hào 6 tuy thế lại ở nội quái, mà giữa hào 3 và hào 6 có hào 5 là vua làm chủ hào 3 rồi) do đó hào 6 mà thế họat động thì tất có điều phải ăn năn.
Tóm lại thời của hào này là thời tránh việc họat động gì cả, sớm rút lui đi thì còn giữ được tứ cách người quân tử, không tồn tại điều hối hận tiếc.
Dụng cửu:Kiến quần long vô thủ. Cát.
Tượng:Thấy bầy rồng không có đầu, tốt.
Xem thêm: Chuỗi Phản Ứng Hóa Học Hữu Cơ Lớp 9, Chuỗi Phản Ứng Hóa Học Lớp 9
Ý nghĩa: Là bầy rồng đã cất cánh lên trời, đầu bị mây che, nên chỉ thấy mình và đuôi. Đó là cái tượng rồng cưỡi mây lên trời vừa tầm, đủ cao, tượng trưng mang đến ý tượng trọn vẹn, đúng thời như lời tự hào 5, không thái quá để rồi hối hận như hào 6 và yếu tố hoàn cảnh không đúng thời như hào 4.